Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2025

Nghiệm pháp bàn nghiêng (Tilt Table Test)

Nghiệm pháp bàn nghiêng là gì?

Đây là một xét nghiệm được sử dụng để đánh giá nguyên nhân gây ra các triệu chứng như ngất xỉu (syncope), chóng mặt không rõ nguyên nhân, hoặc té ngã thường xuyên.

Nghiệm pháp này hoạt động như thế nào?

  • Bệnh nhân sẽ nằm ngửa trên một chiếc bàn đặc biệt có thể nghiêng ở nhiều góc độ khác nhau.

  • Bệnh nhân được cố định bằng dây đai ở eo và đầu gối để đảm bảo an toàn.

  • Các thiết bị theo dõi sẽ được gắn vào cơ thể bệnh nhân để liên tục ghi lại huyết áp, nhịp tim và các phản ứng sinh lý khác.

  • Bác sĩ hoặc kỹ thuật viên sẽ từ từ nghiêng bàn từ vị trí nằm ngang lên các góc độ thẳng đứng (thường là 60-80 độ) trong một khoảng thời gian nhất định (có thể từ 15 đến 45 phút, hoặc lâu hơn nếu có sử dụng thuốc).

  • Trong quá trình này, các dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ để xem cơ thể phản ứng như thế nào với sự thay đổi tư thế.

  • Trong một số trường hợp, thuốc có thể được sử dụng để kích thích phản ứng của hệ thần kinh, giúp bộc lộ các triệu chứng.

Mục đích của nghiệm pháp bàn nghiêng:

Nghiệm pháp này giúp chẩn đoán các tình trạng như:

  • Ngất do phản xạ thần kinh (Neurally mediated syncope/Vasovagal syncope): Đây là loại ngất xỉu phổ biến nhất, xảy ra khi hệ thống thần kinh tự chủ phản ứng quá mức với một số tác nhân (ví dụ: căng thẳng, đứng lâu), dẫn đến giảm đột ngột huyết áp và nhịp tim, làm giảm lượng máu lên não.

  • Hạ huyết áp tư thế đứng (Orthostatic hypotension): Tình trạng huyết áp giảm đáng kể khi chuyển từ tư thế nằm hoặc ngồi sang tư thế đứng.

  • Rối loạn hệ thần kinh tự chủ: Hệ thần kinh tự chủ kiểm soát các chức năng không tự nguyện của cơ thể như huyết áp, nhịp tim, tiêu hóa. Nghiệm pháp bàn nghiêng giúp đánh giá chức năng của hệ này.

  • Phân biệt ngất xỉu với các tình trạng khác: Chẳng hạn như động kinh hoặc giả ngất do tâm lý.

Ai cần làm nghiệm pháp bàn nghiêng?

Những người bị:

  • Ngất xỉu tái phát hoặc không rõ nguyên nhân.

  • Chóng mặt, choáng váng thường xuyên.

  • Té ngã không giải thích được.

Nghiệm pháp bàn nghiêng là một thủ thuật tương đối an toàn và không xâm lấn, mang lại thông tin quan trọng giúp bác sĩ đưa ra chẩn đoán và kế hoạch điều trị phù hợp.

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

Giải Mã Chuối: Từ Xanh Đến Rục – Giai Đoạn Chín Nào Tốt Cho Sức Khỏe Bạn?

 

🍃 Chuối xanh (chưa chín)

  • Giàu tinh bột khángpectin – hai loại chất xơ hỗ trợ tiêu hóa, nuôi dưỡng lợi khuẩn đường ruột.

  • Ít đường đơn, chỉ số đường huyết thấp (GI ~30), phù hợp cho người cần kiểm soát đường huyết.

  • Hỗ trợ giảm cân nhờ tạo cảm giác no lâu và ít calo.

  • Cải thiện hệ vi sinh vật đường ruột và có thể giúp giảm HbA1c, huyết áp ở người tiền tiểu đường hoặc tiểu đường loại 2.

🍌 Chuối chín vàng

  • Tinh bột chuyển hóa thành đường đơn (glucose, fructose), dễ tiêu hóa hơn.

  • Giàu chất chống oxy hóa hơn chuối xanh, giúp bảo vệ tế bào khỏi gốc tự do.

  • Ít fructan hơn, phù hợp với người có hệ tiêu hóa nhạy cảm.

  • Tốt cho người vận động, cần bổ sung năng lượng nhanh trước khi tập luyện.

🍯 Chuối vàng có đốm nâu (hơi chín quá)

  • Ngọt nhất, vì tinh bột đã chuyển hóa gần như hoàn toàn thành đường.

  • Dễ tiêu hóa, phù hợp cho người đang mệt, buồn nôn, hoặc cần ăn nhẹ.

  • Chứa nhiều chất chống oxy hóa nhất, có thể hỗ trợ chống viêm và tăng cường miễn dịch.

  • Có thể hỗ trợ chống ung thư, thiếu máu, trầm cảm và ổn định huyết áp.

⚠️ Chuối chín rục (quá chín)

  • Rất mềm, ngọt, nhưng có thể bị hư nếu có mùi lên men, chảy nước hoặc mốc.

  • Vẫn giàu chất chống oxy hóa, nhưng nên dùng để chế biến (bánh, sinh tố, ngâm rượu) thay vì ăn trực tiếp.

👉 Tóm lại: Mỗi giai đoạn chín của chuối mang lại lợi ích khác nhau. Chuối xanh tốt cho tiêu hóa và kiểm soát đường huyết, chuối chín vàng cung cấp năng lượng nhanh và dễ tiêu, còn chuối chín đốm nâu giàu chất chống oxy hóa và phù hợp cho người cần phục hồi sức khỏe.




Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

Danh sách rau củ quả bẩn

Danh sách “Dirty Dozen” của EWG năm 2025—gồm các loại rau quả như rau bina, dâu tây, cải xoăn, nho, đào, anh đào, xuân đào, lê, táo, mâm xôi đen, việt quất và khoai tây—được xây dựng dựa trên dữ liệu kiểm nghiệm dư lượng thuốc trừ sâu tại Mỹ.
Mặc dù điều kiện canh tác và quy định sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam khác biệt, nhưng có một số điểm tương đồng đáng chú ý.

Dựa trên các báo cáo trong nước và những cảnh báo từ Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật, cũng như các cuộc khảo sát của báo chí và tổ chức phi chính phủ, AI Copilot đã tổng hợp một danh sách “Dirty Dozen” phiên bản Việt—tức là 12 loại rau quả thường bị phát hiện có dư lượng thuốc trừ sâu cao hoặc không an toàn:

  1. Rau muống – thường bị phát hiện có dư lượng thuốc trừ sâu và chất kích thích tăng trưởng.

  2. Cải ngọt / cải xanh – dễ bị sâu bệnh nên thường được phun thuốc nhiều.

  3. Rau cần nước – hấp thụ nhiều hóa chất từ nước và đất.

  4. Đậu đũa – từng bị cảnh báo có dư lượng thuốc BVTV vượt ngưỡng.

  5. Ớt chuông – vỏ mỏng, dễ hấp thụ thuốc trừ sâu.

  6. Dưa leo – thường bị phun thuốc để giữ màu và chống sâu.

  7. Cà chua – dễ bị sâu bệnh, thường dùng thuốc bảo vệ thực vật.

  8. Dâu tây – giống như ở Mỹ, dâu tây ở Việt Nam cũng dễ nhiễm thuốc trừ sâu.

  9. Táo nhập khẩu – thường được xử lý bảo quản bằng hóa chất sau thu hoạch.

  10. Nho – vỏ mỏng, dễ tồn dư thuốc trừ sâu.

  11. Khoai tây – có thể bị xử lý chống mọc mầm bằng hóa chất.

  12. Rau sống (xà lách, rau thơm) – thường ăn sống nên nguy cơ cao nếu không rửa kỹ.

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2025

Mối liên kết ít được chú ý giữa cơn thiếu máu thoáng qua- đột quỵ nhẹ (TIA) và tình trạng mệt mỏi kéo dài.

 Một nghiên cứu cho thấy khoảng một nửa số người bị TIA có thể gặp tình trạng mệt mỏi lâu dài, kéo dài đến một năm.

Các triệu chứng ban đầu của TIA bao gồm nói lắp, yếu tay, và mặt bị xệ, nhưng những tác động lâu dài có thể bao gồm trầm cảm, vấn đề về tư duy, lo âu và giảm chất lượng cuộc sống. Một nghiên cứu theo dõi 354 người đã từng bị TIA, cho thấy rằng 61% báo cáo mệt mỏi đáng kể sau hai tuần, và đến 54% vẫn cảm thấy mệt mỏi sau một năm.

Bài viết cũng đề cập đến cách cải thiện tình trạng mệt mỏi sau TIA bằng cách thay đổi lối sống và sử dụng một số chất bổ sung, chẳng hạn như chất chống oxy hóa để giảm viêm não, curcumin để giảm trầm cảm, và một số phương pháp hỗ trợ khác.

Ngoài ra, để phòng ngừa TIA và đột quỵ, tác giả khuyến nghị tập trung vào việc duy trì huyết áp ổn định, ăn uống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên, quản lý căng thẳng và có giấc ngủ chất lượng.

The Overlooked Link Between Mini-Strokes and Lasting Fatigue | The Epoch Times

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2024

Herpes: Dấu hiệu sớm, nguyên nhân, phương pháp điều trị và phương pháp tiếp cận tự nhiên

 Virus herpes simplex (HSV), còn được gọi là herpes, là một bệnh nhiễm trùng truyền nhiễm phổ biến gây ra các mụn nước và vết loét đau đớn, thường quanh miệng và bộ phận sinh dục. Nó lây lan chủ yếu qua tiếp xúc da kề da.

Các triệu chứng và dấu hiệu sớm của herpes là gì?

Virus herpes simplex tiềm ẩn, có nghĩa là chúng có thể ẩn trong trạng thái không hoạt động hoặc không hoạt động trong một khoảng thời gian. Sau lần nhiễm trùng đầu tiên, virus di chuyển vào rễ thần kinh và định cư trong các cụm thần kinh nơi các dây thần kinh từ các bộ phận khác nhau của cơ thể kết nối. Đối với mụn rộp sinh dục, các cụm thần kinh này ở gần lưng dưới, gần tủy sống. Đối với mụn rộp miệng, các cụm thần kinh nằm phía sau xương gò má.

Hầu hết những người bị mụn rộp không có triệu chứng hoặc chỉ có triệu chứng nhẹ, vì vậy nhiều người không biết rằng họ bị nhiễm trùng, do đó có khả năng lây lan cho người khác một cách vô tình. Tuy nhiên, khi các triệu chứng xuất hiện, chúng bao gồm mụn nước đau đớn, vết loét lạnh hoặc loét có thể tái phát theo thời gian. Nhiễm trùng mới thường gây sốt, đau nhức cơ thể và sưng hạch bạch huyết.

Thứ Ba, 9 tháng 7, 2024

Sử dụng vitamin tổng hợp và nguy cơ tử vong ở 3 đoàn hệ tiềm năng của Hoa Kỳ

Một nghiên cứu toàn diện về người trưởng thành khỏe mạnh ở Hoa Kỳ cho thấy sử dụng vitamin tổng hợp hàng ngày không thúc đẩy cuộc sống lâu hơn và có liên quan đến nguy cơ tử vong cao hơn 4%.
Các nhà nghiên cứu từ Viện Ung thư Quốc gia đã tiến hành nghiên cứu, được công bố vào ngày 26 tháng 6 trên JAMA Network Open. Nghiên cứu này thách thức nhận thức chung rằng vitamin tổng hợp cải thiện sức khỏe và tuổi thọ. Những phát hiện này được đưa ra khi gần một phần ba người trưởng thành ở Hoa Kỳ thường xuyên uống vitamin tổng hợp, thường mong đợi ngăn ngừa các bệnh mãn tính và kéo dài tuổi thọ.
Các chuyên gia kêu gọi thận trọng trong việc giải thích những phát hiện của nghiên cứu. Tiến sĩ Bauerschmidt lập luận rằng bản chất hồi cứu của nghiên cứu và sự phụ thuộc của nó vào các bảng câu hỏi có khả năng không được xác nhận làm tăng thêm sự không chắc chắn, không thiết lập mối liên hệ nguyên nhân rõ ràng giữa việc sử dụng vitamin tổng hợp và tăng nguy cơ tử vong. Ông xem đây là một ví dụ rõ ràng về "sự liên kết không chứng minh được quan hệ nhân quả".

Tương tự, Morgan McSweeney, người có bằng tiến sĩ khoa học dược phẩm và được gọi là "Tiến sĩ Noc", nói với The Epoch Times rằng nghiên cứu này là quan sát, có nghĩa là nó xác định các mẫu nhưng không thể chứng minh nguyên nhân và kết quả.

Câu chuyện tiếp tục bên dưới quảng cáo

"Họ đã cố gắng hết sức để kiểm soát những thứ như 'hiệu ứng người dùng ốm yếu' có thể xảy ra, nhưng có thể có các yếu tố khác không được tính toán đầy đủ, chẳng hạn như sự khác biệt về tần suất mọi người gặp bác sĩ hoặc các thói quen sức khỏe khác không được phản ánh trong các bộ dữ liệu có sẵn, có thể ảnh hưởng đến kết quả", ông nói. Trong khi nghiên cứu nói rằng vitamin tổng hợp không có lợi cho tuổi thọ, thật khó để nói chắc chắn rằng chúng gây hại, ông nói thêm.

Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào tỷ lệ tử vong, để ngỏ khả năng vitamin có thể có những lợi ích hoặc rủi ro sức khỏe khác không được đo lường trong nghiên cứu này. "Mặc dù nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về bất kỳ lợi ích nào liên quan đến tỷ lệ tử vong, nhưng điều đó không loại trừ khả năng lý thuyết cho một số loại lợi ích khác mà họ không đo lường", ông McSweeney nói thêm.

Quan điểm cá nhân của ông McSweeney rất rõ ràng - nếu một nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đề nghị bổ sung, hãy làm theo lời khuyên của họ. "Tuy nhiên, trong trường hợp mọi người có thể chọn dùng chất bổ sung mới dựa trên những thứ họ thấy trên phương tiện truyền thông xã hội, tôi vẫn không thấy bằng chứng mạnh mẽ biện minh cho việc chi nhiều tiền cho các sản phẩm dường như không mang lại lợi ích sức khỏe đáng kể", ông nói.

Ông gợi ý rằng mọi người có thể tốt hơn nên chi tiêu tiền của họ vào thực phẩm lành mạnh giàu chất xơ và chất dinh dưỡng thực vật. "Những thực phẩm như vậy ngày nay đắt đỏ với lạm phát, nhưng có lợi ích rất rõ ràng cho sức khỏe", ông kết luận.

Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

Tăng huyết áp và suy tim: Từ sinh lý bệnh đến điều trị

Tăng huyết áp đại diện cho một trong những yếu tố nguy cơ chính và phổ biến nhất dẫn đến sự phát triển của suy tim (HF) trên toàn bộ phổ của phân suất tống máu thất trái. Một lượng lớn bằng chứng đã chứng minh rằng kiểm soát huyết áp (HA) đầy đủ có thể làm giảm các biến cố tim mạch, bao gồm cả sự phát triển của HF. Mặc dù vai trò sinh lý bệnh và dịch tễ học của tăng huyết áp trong sự phát triển của HF đã được biết đến rộng rãi, một số vấn đề quan trọng vẫn đáng được làm rõ, bao gồm các mục tiêu huyết áp, đặc biệt là ở bệnh nhân HF. Thật vậy, việc quản lý tăng huyết áp trong HF dựa trên ngoại suy các phát hiện từ bệnh nhân tăng huyết áp có nguy cơ cao trong dân số nói chung chứ không phải từ các nghiên cứu được thiết kế đặc biệt trong quần thể HF. Ở bệnh nhân tăng huyết áp và HF giảm phân suất tống máu (HFrEF), nên kết hợp các thuốc có lợi ích kết cục đã được ghi nhận và tác dụng hạ huyết áp. Ở những bệnh nhân bị HF có EF được bảo tồn (HFpEF), khuyến cáo sử dụng chiến lược điều trị với tất cả các nhóm thuốc hạ huyết áp chính. Bên cạnh các thuốc hạ huyết áp thường được sử dụng, bằng chứng khác nhau cho thấy các loại thuốc khác được khuyến cáo trong HF vì tác dụng có lợi đối với kết quả tim mạch có tác dụng hạ huyết áp có lợi. Về vấn đề này, các chất ức chế vận chuyển natri glucose loại 2 (SGLT2i) đã được chứng minh là gây ra các hành động hạ huyết áp có ảnh hưởng tốt đến hậu tải của tim, khớp nối động mạch thất, hiệu quả của tim và tái tạo ngược tim. Gần đây, người ta đã chứng minh rằng finerenone, một chất đối kháng thụ thể mineralocorticoid không steroid, làm giảm HF mới khởi phát và cải thiện các kết quả HF khác ở bệnh nhân mắc bệnh thận mãn tính và tiểu đường loại 2, bất kể tiền sử HF. Các tác nhân được đề xuất khác, chẳng hạn như thuốc đối kháng thụ thể endothelin, đã cung cấp kết quả tương phản trong việc quản lý tăng huyết áp và HF. Một chiến lược mới, đầy hứa hẹn có thể được đại diện bởi RNA can thiệp nhỏ, có hành động đang được điều tra trong các thử nghiệm lâm sàng đang diễn ra.